Trong cuộc đời cầm quân của mình, từ 1946 đến 1954, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã lần lượt đánh bại 7 Đại tướng Pháp.
1. Đại tướng trẻ nhất
Năm 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh phong quân hàm Đại tướng cho Võ Nguyên Giáp, lúc đó ông 37 tuổi. Tiếp sau đó là các sắc lệnh phong Trung tướng Nguyễn Bình và các vị Thiếu tướng Hoàng Văn Thái, Nguyễn Sơn, Hoàng Sâm, Chu Văn Tấn, Trần Tử Bình, Văn Tiến Dũng, Lê Hiến Mai và Trần Đại Nghĩa
Có một phóng viên phương Tây mới hỏi Bác Hồ rằng: Chúng tôi chưa thấy Việt Nam có trường quân sự cao cấp nào. Vậy Ngài Chủ tịch căn cứ vào đâu để phong nhiều cấp Tướng như vậy?
1. Đại tướng trẻ nhất
Năm 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh phong quân hàm Đại tướng cho Võ Nguyên Giáp, lúc đó ông 37 tuổi. Tiếp sau đó là các sắc lệnh phong Trung tướng Nguyễn Bình và các vị Thiếu tướng Hoàng Văn Thái, Nguyễn Sơn, Hoàng Sâm, Chu Văn Tấn, Trần Tử Bình, Văn Tiến Dũng, Lê Hiến Mai và Trần Đại Nghĩa
Có một phóng viên phương Tây mới hỏi Bác Hồ rằng: Chúng tôi chưa thấy Việt Nam có trường quân sự cao cấp nào. Vậy Ngài Chủ tịch căn cứ vào đâu để phong nhiều cấp Tướng như vậy?
Bác Hồ cười rất đôn hậu và trả lời rằng: “Việt Nam chúng tôi đang đánh giặc theo kiểu du kích, nên cũng phong quân hàm theo lối du kích, nghĩa là ai đánh thắng Đại tá thì phong Đại tá, ai đánh thắng Thiếu tướng thì phong Thiếu tướng, ai đánh thắng Đại tướng thì phong Đại tướng, và có lẽ ông cũng đồng ý với tôi là phong như vậy vẫn còn là khiêm tốn phải không?”.
Người phóng viên phương Tây ấy hoàn toàn bị bất ngờ, vì vào thời điểm năm 1948 thì nước Pháp đã phải thay hai vị Tổng tư lệnh quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương vì bại trận, đó là các tướng Le Clerc (Lơ-cờ-lec), Valluy (Va-luy). Đây đều là các tướng 4 sao tài ba của nước Pháp.
2. Đại tướng giỏi nhất
Trong 30 năm làm Bí thư Quân uỷ Trung ương, Tổng tư lệnh quân đội, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng của Việt Nam (1946-1976), ông đã tổ chức chỉ huy quân và dân ta lần lượt đánh bại các đội quân xâm lược của phát xít Nhật, để cướp chính quyền trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, sau đó là đánh thắng đội quân viễn chinh của thực dân Pháp gần 20 vạn tên, và cuối cùng là đánh bại đội quân xâm lược của đế quốc Mỹ 54 vạn quân và 6 vạn quân đồng minh của Mỹ.
Chúng ta có thể tự hào về truyền thống thượng võ của dân tộc, từ Trần Hưng Đạo thế kỷ XIII đến Võ Nguyên Giáp - thế kỷ thứ XXI là gần 700 năm. Một người trong vòng 30 năm, ba lần thắng đế quốc to; một người cũng trong vòng 30 năm đánh thắng 3 đế quốc to. Một người được nhân dân vinh danh là Đức Thánh Trần, một người được tôn vinh là vị Tướng của nhân dân.
Người phóng viên phương Tây ấy hoàn toàn bị bất ngờ, vì vào thời điểm năm 1948 thì nước Pháp đã phải thay hai vị Tổng tư lệnh quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương vì bại trận, đó là các tướng Le Clerc (Lơ-cờ-lec), Valluy (Va-luy). Đây đều là các tướng 4 sao tài ba của nước Pháp.
2. Đại tướng giỏi nhất
Trong 30 năm làm Bí thư Quân uỷ Trung ương, Tổng tư lệnh quân đội, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng của Việt Nam (1946-1976), ông đã tổ chức chỉ huy quân và dân ta lần lượt đánh bại các đội quân xâm lược của phát xít Nhật, để cướp chính quyền trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, sau đó là đánh thắng đội quân viễn chinh của thực dân Pháp gần 20 vạn tên, và cuối cùng là đánh bại đội quân xâm lược của đế quốc Mỹ 54 vạn quân và 6 vạn quân đồng minh của Mỹ.
Chúng ta có thể tự hào về truyền thống thượng võ của dân tộc, từ Trần Hưng Đạo thế kỷ XIII đến Võ Nguyên Giáp - thế kỷ thứ XXI là gần 700 năm. Một người trong vòng 30 năm, ba lần thắng đế quốc to; một người cũng trong vòng 30 năm đánh thắng 3 đế quốc to. Một người được nhân dân vinh danh là Đức Thánh Trần, một người được tôn vinh là vị Tướng của nhân dân.
3. Đại tướng đánh thắng nhiều Đại tướng nhất
Trong cuộc đời cầm quân của mình, từ 1946 đến 1954, ông đã lần lượt đánh bại 7 Đại tướng Pháp.
Đầu tiên là tướng 4 sao Philippe leclerc nhậm chức tháng 8-1945, đến tháng 6-1946 bị triệu hồi vì thất bại trong chiến lược đánh nhanh thắng nhanh.
Tướng 4 sao Etienne Valluy sang thay, đến tháng 5-1948 lại bị triệu hồi vì thất bại trong Thu Đông 1947.
Đến lượt tướng 4 sao C.Blaijat sang thay, nhưng được một năm, đến tháng 9-1949 lại phải thay vì không thực hiện được chiến lược “Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt trị người Vịêt”.
Tướng 4 sao M.Corgente sang thay lại bị một đòn đau trong chiến dịch Biên giới, tháng 12-1950 được thay bằng tướng Delattre De Tassigny, đây là vị tướng 5 sao, người tài nhất của nước Pháp, nhưng cũng chỉ được một năm vì bị thua trận ở khắp nơi, nhất là việc xây dựng hàng nghìn lô cốt boong ke để co về cố thủ.
Tướng Raul Salan sang thay, tướng 4 sao này trụ được từ tháng 12-1951 đến tháng 5-1953 lại bị thay vì thua trong chiến dịch Hoà bình và các mặt trận ở toàn Đông Dương.
Cuối cùng là tướng 4 sao Henri Navarre, ông này bị thua đậm nhất ở khắp các chiến trường Đông Dương mà đau nhất là ở Điện Biên Phủ, ông từng thách tướng Giáp đánh Điện Biên, nhưng cuối cùng phải dùng máy bay Mỹ trực tiếp ném bom xuống Điện Biên Phủ mà cũng không cứu vãn được.
Sau khi bị thua ở đây, tháng 6-1954, tướng 5 sao Ely sang thay. Ông này may mắn, vì một tháng sau Hiệp định Giơnevơ đã ký, nên Ely chỉ làm nhiệm vụ thu quân, cuốn cờ về nước.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, từ năm 1955 đến 1960, Mỹ thực hiện chiến lược “Chiến tranh đơn phương”, họ đã phải thay hai đại sứ Mỹ ở miền Nam. Từ 1961 đến 1964, bị thất bại trong chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, Tổng tư lệnh quân viễn chinh Mỹ - tướng Hakin phải triệu hồi. Từ 1965 đến 1968, Mỹ lại tiếp tục thua trong chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, Tổng tư lệnh Westmoreland bị cách chức.
Từ 1965 đến 1975, Mỹ chuyển sang chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, thời gian này, Tổng tư lệnh C.Abrams được thay bằng tướng F.C.Weyand, ông này là người cuốn cờ để rút quân về Mỹ. Như vậy, Mỹ phải 4 lần thay Tổng tư lệnh.
Ngoài ra, quân đội Mỹ còn bị chết 12 tướng, bị thương 8 tướng khác trong chiến tranh Việt Nam.
4. Đại tướng viết nhiều sách nhất
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, tướng võ thường giỏi văn như Lý Thường Kiệt với bài thơ thần “Nam quốc sơn hà”, Trần Hưng Đạo với “Hịch tướng sĩ” văn, Quang Trung với lời dụ tướng sĩ. Tướng văn lại giỏi võ như Nguyễn Trãi, với chiến lược tâm công (đánh vào lòng người).
Võ Nguyên Giáp, cùng với sự nghiệp quân sự có một không hai, ông còn là tác giả của 64 đầu sách, trên 10 vạn trang in, đóng góp vào kho tàng lý luận về chiến tranh nhân dân, về học thuyết quân sự Việt Nam, vào kho tàng văn học và sử học của nước nhà.
5. Đại tướng có những quyết định đậm dấu ấn lịch sử
- Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, ông đã quyết đoán thay đổi phương châm từ “đánh nhanh thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”, ông tâm sự rằng, đây là quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời chỉ huy của mình. Bình luận về sự kiện này, Đại tướng nước Anh là Peter Macdonald viết: “Cách triển khai trận đánh Điện Biên Phủ và hậu quả của nó đã làm cho chiến trận này trở thành một cuộc chiến đấu mang tính quyết định nhất trong mọi thời đại và ghi tên Võ Nguyên Giáp vào các sử sách”.
- Trong trận quyết chiến chiến lược năm 1975, ông đã ra một mệnh lệnh lịch sử:
1. Thần tốc, thần tốc hơn nữa; táo bạo, táo bạo hơn nữa, tranh thủ từng giờ từng phút xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam, quyết chiến và toàn thắng.
2. Truyền đạt tức khắc đến đảng viên, chiến sĩ.
Mệnh lệnh này trở thành một sức mạnh vật chất phi thường để rút ngắn thời gian giải phóng miền Nam từ 2 năm, 1 năm và cuối cùng là 56 ngày.
- Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, trong một cuộc giao lưu tại Nhà hát lớn Hà Nội trong chương trình “Vang mãi khúc quân hành”, ông nói: “Thế hệ cha anh đã xoá được nỗi nhục mất nước, thế hệ trẻ cần phải xoá đi nỗi nhục nghèo nàn, lạc hậu”. Thắng thực dân Pháp, chúng ta có Điện Biên Phủ ở Tây Bắc, thắng đế quốc Mỹ, ta có một Điện Biên Phủ trên bầu trời Hà Nội. Ông đau đáu một tâm sự “Phải có một Điện Biên Phủ trong khoa học và công nghệ”, để công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
6. Đại tướng giàu tình cảm nhất
Ngày 28/5/1948, lễ thụ phong Đại tướng Võ Nguyên Giáp được tổ chức ở xã Phú Bình, huyện Định Hoá, Thái Nguyên, do đích thân Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ toạ, tới dự có khá đủ các thành viên của Chính phủ.
Bác Hồ gọi Võ Nguyên Giáp lên trước Bàn thờ Tổ quốc, bằng một giọng trang nghiêm và xúc động, Bác nói: “Hôm nay, thay mặt Chính phủ và nhân dân…”, rồi bỗng nghẹn lời, Bác rút khăn lau nước mắt. Giây phút đó làm cho mọi người xúc động, lát sau, Bác nói tiếp: “Nhân danh Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, trao cho chú chức vụ Đại tướng, để chú điều khiển binh sĩ làm trọn sứ mạng mà Quốc dân phó thác cho”.
“Việc phong tướng cho chú Giáp và các chú khác hôm nay là kết quả biết bao hy sinh chiến đấu của đồng bào, đồng chí… các thế hệ đi trước chiến đấu cho độc lập mà sự nghiệp không thành, nhắm mắt vẫn còn chưa thấy độc lập tự do. Chúng ta ngày nay may mắn hơn, nhưng trước mắt vẫn còn nhiều khó khăn. Nghĩ tới hàng nghìn, hàng vạn người ngã xuống cho ngày hôm nay, chúng ta phải cố gắng giành cho được độc lập, tự do để thoả mãn vong linh những người đã khuất”.
Hôm đó Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã khóc.
Ngày 3/4/1954, khi nghe trợ lý tác chiến báo cáo Trung đoàn 174 và Trung đoàn 102 đánh đồi A1 ở Điện Biên Phủ chiến đấu rất dũng cảm, mà vẫn chưa dứt điểm được. Thương cán bộ chiến sĩ hy sinh nhiều, ông đã rơi nước mắt.
Năm 1989, Đại tướng về thăm an toàn khu huyện Định Hoá, Thái Nguyên, các mẹ, các chị từng nuôi và che chở cho Đại tướng trong những ngày đầu cách mạng còn khó khăn, cứ thế chạy lại ôm lấy Đại tướng mà hôn, mà khóc, ông cũng không cầm lòng được, cũng nước mắt lưng tròng, làm cho cuộc đón tiếp rất thân tình và xúc động.
Năm 1994, khi đọc tin Nhà nước phong tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” đợt đầu tiên, ông đã khóc, có lẽ ông nghĩ đến các bà mẹ đã trao những đứa con trai thông minh và khoẻ đẹp cho ông để đi đánh giặc, và các anh đã không trở về.
Năm 2005, trong cuộc hành quân “Tiếp lửa truyền thống vang mãi khúc quân hành”, khi tiễn 1000 cựu chiến binh trong cuộc hành quân vào Sài Gòn dự lễ kỷ niệm 30 năm Giải phóng, ông gặp gỡ các cựu chiến binh, thấy một người già yếu, mặc áo sờn vai, Đại tướng đã khóc, những người có mặt lúc đó đều hết sức xúc động.
Năm 2010, trong bộ phim về tướng Vũ Lăng, khi phát biểu về vị tướng này, ông cũng đã khóc, những giọt nước mắt của vị tướng đã 100 tuổi khóc thương một vị tướng tài - một người bạn chiến đấu của ông.
7. Đại tướng đức độ, suốt đời thực hiện lời dạy của Bác Hồ "Dĩ công vi thượng"
Trong lịch sử nhân loại, cứ sau chiến tranh, những người tài giỏi trong cuộc thường bị đố kỵ. Phạm Lãi và Văn Chủng giúp Việt Vương Câu Tiễn đánh bại Ngô Vương Phù Sai ở Trung Quốc, Kutuzop (Ku Tu Giốp) giúp Nga Hoàng đánh bại Napoléon tại Nga, và ngay ở Việt Nam, Nguyễn Trãi giúp Lê Lợi đến thắng lợi, để ra được Bình Ngô Đại Cáo, Bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của dân tộc, đều khó tránh khỏi sự đố kỵ.
Sau cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, với chiến thắng Điện Biên Phủ “chấn động địa cầu”, nhân dân thế giới - nhất là thế giới thứ ba tôn vinh Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, mà họ tôn vinh là đúng. Ở trong nước, Võ Nguyên Giáp là một trong những người được lòng dân nhất, được tôn vinh là vị Tướng của nhân dân.
8. Đại tướng yêu hoà bình trong độc lập tự do
Tháng 4 năm 1946, Võ Nguyên Giáp là Phó trưởng đoàn trong phái đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hoà tới Đà Lạt dự cuộc đàm phán trù bị.
Trước khi ra đi, Bác Hồ đến bắt tay từng người và nhắc nhở: “Cần đặt vấn đề Nam Bộ và vấn đề đình chiến lên đầu chương trình nghị sự”.
Võ Nguyên Giáp nói với tướng Gioăng là Tổng tham mưu trưởng quân đội Pháp trên đường đi từ Nam Kinh về Pari, ghé thăm Hội nghị Đà Lạt: “Người Pháp phải thực hiện đình chiến ở Nam Bộ theo đúng tinh thần của bản hiệp định. Nếu không, nhân dân Việt Nam sẽ tiếp tục chiến đấu đến cùng. Tôi nói với ông điều này với tư cách là một người kháng chiến”.
Trong Hội nghị, ông khẳng định: “Các chiến sĩ Việt Nam đã trải qua nhiều khó khăn trong cuộc chiến tranh giành tự do cho Tổ quốc, chỉ có thể chấp nhận hoà bình trong công bằng và danh dự… Lịch sử sẽ chứng minh lời nói của chúng tôi là đúng".
Ngày 6/7/1956, trong thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đồng bào cả nước về cuộc đấu tranh chính trị hồi đó, Người viết: “Nhiệm vụ thiêng liêng của chúng ta là: Kiên quyết tiếp tục đấu tranh thi hành Hiệp nghị Giơnevơ, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ bằng phương pháp hoà bình, hoàn thành sự nghiệp vẻ vang giải phóng dân tộc"
Ngày 9/7/1956, trong cuộc mít tinh của nhân dân Hà Nội, hưởng ứng bức thư của Hồ Chủ Tịch, Phó Thủ tướng Võ Nguyên Giáp nói: “Chủ trương của chúng ta là thống nhất nước nhà bằng phương pháp hoà bình, và chúng ta nhận định rằng trong điều kiện trong nước và thế giới hiện nay sự nghiệp thống nhất nước nhà của Việt Nam ta có khả năng hoàn thành bằng phương pháp hoà bình”(2).
Ông còn nói: “Chúng ta lại phải nhớ rằng, thế giới ngày nay chiến tranh có khả năng tránh khỏi, nhưng nguy cơ chiến tranh vẫn tồn tại, thì ở nước ta, do sự can thiệp của Chủ nghĩa đế quốc vào miền Nam, cho nên nguy cơ chiến tranh vẫn tồn tại ngay trên đất nước ta.
Vì vậy mà trong khi chủ trương dùng phương pháp hoà bình để thực hiện thống nhất nước nhà, chúng ta vẫn phải nâng cao tinh thần cảnh giác đề phòng, chăm lo đến khả năng phòng thủ của đất nước để kịp thời đánh tan mọi hành động khiêu khích, mọi âm mưu xâm lược, tuyệt đối không nên chủ quan, mất cảnh giác”(3). Hồi đó Bác Hồ đã trực tiếp giao cho Võ Nguyên Giáp khởi thảo Nghị quyết 15 của Trung ương. Nghị quyết khẳng định nhiệm vụ của cách mạng miền Nam là: “Tiếp tục cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, đánh đổ chế độ đế quốc và nửa phong kiến ở miền Nam để thực hiện thống nhất nước nhà”
Khi đế quốc Mỹ buộc dân tộc ta phải cầm súng, thì Đại tướng Võ Nguyên Giáp với cương vị là Tổng tư lệnh đã lãnh đạo, chỉ huy quân và dân ta làm nên điều thần kỳ của thế kỷ XX là đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược.
Tiến sĩ sử học Na-uy Stein Tonnesson khẳng định “Đại tướng Võ Nguyên Giáp là người đặc biệt yêu hoà bình. Đại tướng luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của hoà bình và sự cần thiết phải duy trì hoà bình cho Việt Nam cũng như các nước khác trên thế giới. Đó là điều mà tôi rất kính trọng và ấn tượng sâu sắc với Đại tướng Võ Nguyên Giáp”.
(Đại tá Nguyễn Huy Toàn
Nhà nghiên cứu tư tưởng Văn hoá quân sự)